Sẽ uổng phí nếu bạn đọc một cuốn sách thật chậm khi nó chỉ đáng để bạn đọc nhanh. Cấu trúc bài phân tích về sự tiến bộ được mô tả ở trên đã minh họa cho sự cố gắng cắt nghĩa các vấn đề trong phạm vi bàn luận về chủ đề này của chúng tôi và để phân tích chính cuộc bàn luận này. Nhưng nếu những quy tắc của việc đọc sách được tuân thủ và rèn luyện, thì vẫn có thể áp dụng cho bất kỳ loại tài liệu nào khác như báo, tạp chí, tờ rơi, luận văn, hay thậm chí cả những mục quảng cáo.
Có thể tóm gọn các đặc điểm của cách đọc này trong từ chính thống. Đoạn độc thoại bị cắt ngang khi chàng trông thấy Ophelia. Một tác giả có thể không rút ra được kết luận tiềm ẩn trong các bằng chứng hay nguyên lý của mình, làm cho quá trình suy luận của anh ta chưa hoàn thành.
Hai là phương pháp sử dụng thị giác để tiếp nhận các từ trước khi chú ý đến từng chữ cái hay từng âm. Một luật sư thiếu kinh nghiệm muốn vượt qua những kỳ thi luật phải đọc một số văn bản theo cách nào đó để được điểm cao. Nói cách khác, một người có thể đọc tốt nhưng chưa chắc đã phê bình tốt.
Ra đời vào những năm 1940, nó là một danh mục theo chủ đề về các cuốn sách mang tên Các cuốn sách vĩ đại của thế giới phương Tây. Khi đọc một cuốn sách, bạn cần nêu ra càng rõ càng tốt các vấn đề mà tác giả đang tìm cách giải quyết. Kỹ năng trong giai đoạn thứ ba (giai đoạn cuối) phụ thuộc vào phép tu từ.
Ở khả năng thứ hai, mỗi từ có thể dùng để diễn giải nhiều thuật ngữ. Các tác giả, dù có chung ngôn ngữ nào, cũng không đóng vai trò quá đặc biệt trong vấn đề chúng ta đang giải quyết, vì vậy không thể tạo ra được một hệ thống ngôn từ lý tưởng giúp ta xử lý vấn đề. Nếu bạn định trả lời hai câu hỏi cơ bản đầu tiên đối với bất cứ loại sách vở nào bạn đọc, bạn phải xem xét ý kiến của mình ngay lúc bắt đầu đọc vì bạn sẽ không thể hiểu được một cuốn sách nếu từ chối nghe những gì nó nói.
Do sự khác nhau về ngôn từ, người đọc có thể nhầm tưởng các tác giả bất đồng quan điểm, hoặc bỏ qua các ý kiến khác nhau chỉ vì họ diễn đạt giống nhau về ngôn từ. Ví dụ từ đọc, đôi lúc chúng ta dùng từ này để chỉ việc đọc sách nói chung; lúc khác, chúng ta dùng nó để chỉ việc đọc lấy thông tin hơn là đọc để giải trí. Có nhiều loại tiểu sử.
Hầu hết các cuốn sách lớn vè kinh tế học, chính trị, đạo đức đều thuộc loại này. Để tránh sơ sót, người đọc cẩn thận có thể chọn cho mình phương pháp dễ và sử dụng nó càng nhiều càng tốt. Điều này lý giải tại sao chúng ta gọi những câu ẩn chứa nhận định là câu tường thuật và những câu nêu câu hỏi là câu nghi vấn.
Mỗi bộ phận chính có tính độc lập nhưng vẫn có mối liên hệ chức năng với nhau, góp phần tạo nên giá trị chung của ngôi nhà. Trong cuốn sách trước, tôi không đề cập đến, hoặc đề cập không thoả đáng nhiều nội dung như: những quan điểm mới về cách học đọc, sự phân tích toàn diện và chặt chẽ hơn về nghệ thuật đọc đầy phức tạp, áp dụng linh hoạt các nguyên tắc cơ bản trong các cách đọc khác nhau, việc phát hiện và hình thành những quy tắc đọc sách mới,… Trong lần tái bản này, tất cả những điều trên sẽ được diễn giải thấu đáo hơn. Vì thuật ngữ là một trong những thành tựu hàng đầu của nghệ thuật viết và đọc, nên chúng ta có thể coi nó như nghệ thuật sử dụng từ ngữ một cách điêu luyện nhằm mục đích truyền đạt kiến thức.
Sau đó, trong quá trình đọc phân tích, bạn cần trả lời những câu hỏi về tính chân thực và tầm quan trọng của cuốn sách. Chúng ta đã thấy lịch sử là sự trộn lẫn giữa hư cấu và khoa học như thế nào và chúng ta phải đọc lịch sử với nhận thức đó trong đầu ra sao. Dù thế nào, họ cũng buộc phải chấp nhận giải pháp mà người khác đưa ra cho vấn đề của họ.
Do đó, độc giả vẫn thường cho rằng những từ quan trọng nhất là những từ làm họ thấy khó hiểu. Không thể coi chúng là ba từ khác biệt vì cả ba đều có chung gốc X. Phương tiện để đo tính hoàn chỉnh đó nằm ở số lượng các điểm khác biệt độc đáo có giá trị hàm chứa trong vấn đề được so sánh.